CÁC NHÂN TỐ KHÁC
* Thuế quan
Từ lâu, người ta đã nhận ra rằng thuế quan làm tăng tiêu thụ cà phê. Cộng đồng cà phê coi thuế quan là một phần của một nhóm các rào cản pháp lý, chính trị và hành chính. Sự tiến bộ đáng kể trong việc giảm thuế đối với nhập khẩu cà phê vào các nước tiêu thụ đã được thực hiện thông qua các vòng khác nhau của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) và gần đây thông qua các cuộc đàm phán dưới sự bảo trợ của Tổ chức Thương mại Thế giới. Tuy nhiên, trong khi hầu hết các hàng rào thuế quan đã được gỡ bỏ đối với cà phê xanh, vẫn còn một số mức thuế áp dụng đối với cà phê chế biến là rào cản đối với việc nhập khẩu cà phê chế biến vào các nước tiêu thụ. Ngoài ra, cũng có một số hàng rào phi thuế quan như hạn chế về số lượng và thuế nội bộ tiếp tục ức chế tiêu dùng.
Các quốc gia và khu vực nhập khẩu cà phê hàng đầu thế giới (Hoa Kỳ, Canada, Liên minh châu Âu và Nhật Bản) không đánh thuế hàng nhập khẩu đối với cà phê xanh. Hoa Kỳ và Canada cũng không đánh thuế nhập khẩu đối với cà phê chế biến (rang xay, hòa tan). Liên bang Nga không còn đánh thuế nhập khẩu chung đối với nhập khẩu cà phê xanh, nhưng nhập khẩu cà phê rang được đánh giá ở mức 10% với mức tối thiểu 0,20 EUR mỗi kg. Liên minh châu Âu áp dụng các chế độ thuế nhập khẩu khác nhau đối với cà phê chế biến, tùy thuộc vào tình trạng của một quốc gia sản xuất riêng lẻ theo Hệ thống ưu đãi tổng quát (GSP), Hiệp định đối tác kinh tế (EPA) hoặc Hiệp định thương mại song phương.
Thuế giá trị gia tăng (VAT) được áp dụng cho cả doanh số bán cà phê rang xay và hòa tan của hầu hết các nước châu Âu với tỷ lệ phần trăm từ 3% ở Luxembourg đến 25% ở Đan Mạch và Hungary. Tất nhiên đây là thuế nội bộ và không liên quan trực tiếp đến các nhà xuất khẩu, nhưng vẫn hữu ích để tham khảo. Thuế tiêu thụ đặc biệt cũng được áp dụng ở một số quốc gia như Bỉ, Đan Mạch, Đức, Latvia và Romania.
* Bền vững và vấn đề xã hội trong ngành cà phê
Cà phê luôn được kết nối với cảm xúc và ý kiến khác nhau: do đó, cuộc tranh luận về các khía cạnh kinh tế xã hội của sản xuất cà phê đã có hàng thập kỷ. Một chủ đề thường xuyên, đặc biệt là trong thời điểm giá cà phê thấp hoặc khi có bất ổn chính trị ở các khu vực sản xuất cà phê, đó là điều kiện làm việc và sinh hoạt của nông dân cà phê trên các đồn điền nương rẫy.
Các nhóm vận động và tổ chức phi chính phủ đã có nhiều giải pháp để cải thiện sinh kế và đối xử công bằng với người trồng cà phê hay công nhân đồn điền. Thậm chí, nhiều nhà hoạt động tiêu dùng muốn thay đổi hệ thống từ khâu sản xuất và bắt đầu nhập khẩu trực tiếp cà phê, trà và các mặt hàng khác từ các nhà sản xuất nhỏ.
Những bước đầu tiên này đã nở rộ, được thúc đẩy bởi một sáng kiến ở Hà Lan vào năm 1988 khi một tổ chức phi chính phủ, Solidaridad, đã chủ động khởi động hệ thống chứng nhận Max Havelaar cho cà phê Fairtrade (và sau đó là cho các sản phẩm khác) với mục tiêu đưa các loại cà phê này vào kênh siêu thị thông thường. Chính điều này đã thúc đẩy việc tạo ra các nhãn hàng khác hướng đến sự bền vững, mà các nhà bán lẻ và nhà sản xuất chấp nhận, coi tiếp thị có tính nhân quả như một phương tiện khác biệt hóa sản phẩm, nhưng đồng thời thúc đẩy sự bền vững cũng như hoàn thành các mục tiêu trách nhiệm xã hội của họ. Các nhà sản xuất thường lần lượt nhận được giá tốt hơn cho cà phê của họ, mặc dù không phải tất cả các chương trình đều đảm bảo lợi nhuận tốt hơn.
Một sự phát triển chung gần đây là ngành công nghiệp cà phê chính đang ngày càng chấp nhận trách nhiệm đối với các điều kiện mà cà phê được sản xuất. Cùng với sự quan tâm ngày càng tăng và hỗ trợ cho các nguyên nhân môi trường ở các nước nhập khẩu nói chung, điều này đã dẫn đến việc đưa ra các thuật ngữ như sản xuất có trách nhiệm hoặc thân thiện với môi trường hoặc cà phê bền vững với môi trường.
Phòng đào tạo SACT