Logo SACT

(094) 543 5430
support@hanghoaphaisinh.com

CT36A, Định Công, Hoàng Mai, Hà Nội

GIAO DỊCH HÀNG HÓA VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN


Giao dịch hàng hóa trong những năm gần đây đang là một chủ đề cực nóng với các nhà đầu tư cùng vô vàn những cơ hội và thách thức. Tuy đã có mặt lâu đời trên thế giới nhưng sàn giao dịch hàng hóa cũng như các kiến thức liên quan đến thị trường vẫn còn rất mới ở Việt Nam. Vì vậy, đội ngũ của SACT quyết định đăng tải cuốn sách “Kiến thức cơ bản về giao dịch hàng hóa” để làm nguồn tham khảo miễn phí và hỗ trợ kiến thức cho các nhà đầu tư tương lai.

Thị trường giao dịch hàng hóa thực sự có một bề dày lịch sử phát triển lâu đời. Vì thực chất giao dịch hàng hóa đã hình thành từ hơn 100.000 năm trước, khi con người bắt đầu trao đổi hàng hóa và dịch vụ để đáp ứng các nhu cầu tối thiểu. Phương thức cơ bản nhất được biết đến là barter (hàng đổi hàng).

Vấn đề vướng mắc trong hoạt động trao đổi lúc đó là rất khó giao dịch giữa các hàng hóa có thời kỳ thu hoạch khác nhau trong năm. Giải pháp đưa ra là sử dụng mặt hàng khó hỏng hoặc giữ được lâu như rượu vang, ngũ cốc làm trung gian trao đổi. Ví dụ, có thể trao đổi mặt hàng dễ hư hỏng với rượu vang để sau đó, từ rượu vang đổi lấy sản phẩm của vụ mùa cuối năm đó; tiền tệ trao đổi lúc này là rượu vang.

Những hoạt động trao đổi này cuối cùng dẫn đến sự phát triển của tiền tệ hàng hóa (commodity money), một công cụ giá trị trung gian hỗ trợ mở rộng cơ hội trao đổi hàng hóa có thời vụ khác nhau. Hầu như mỗi nền văn minh sẽ phát triển một cơ sở tiền tệ hàng hóa để thực hiện các giao dịch. Ở đây, người ta sử dụng hàng hóa lâu bền để đổi lấy thỏa thuận nhận được một lượng hàng hóa trong tương lai (sau khi thu hoạch vụ mùa), một sự manh nha của hợp đồng kỳ hạn.

Đến khoảng năm 8000 TCN, khi chữ viết và toán học phát triển ở nước Sumer, nền văn minh cổ đại sớm nhất trong lịch sử loài người, nằm ở khu vực sông Tigris và Euphrates, tại Trung Đông, người Sumer sử dụng thẻ đất cùng lọ đất thay thế rượu vang làm hợp đồng thỏa thuận cung cấp một lượng hàng hóa (đánh dấu bằng thẻ đất) vào một ngày nhất định (thời gian ấn định ghi trên lọ đất) với giá cả (có thể là lượng hàng hóa khác) ấn định ở ngày thỏa thuận.

Đến khoảng năm 3500 TCN, người Sumer thay thế lọ đất thành bảng đất sét. Những giao dịch lúc đó đã tương tự như hợp đồng kỳ hạn. Đến thời kỳ cổ đại, nhiều nơi cũng xuất hiện hàng hóa phái sinh. Thời kỳ Hy Lạp cổ đại, người Athen thiết lập hợp đồng vận chuyển thương mại tương tự như hợp đồng kỳ hạn. 

bảng đất sét trong giao dịch hàng hóa
Bảng đất sét (Hình ảnh minh họa)

Cũng có nguồn tài liệu khác cho rằng, nguồn gốc của công cụ phái sinh có thể được bắt nguồn từ hoạt động thương mại sơ khai tại vùng Lưỡng Hà vào những năm 2000 TCN, khi mà các hợp đồng đầu tiên về việc thực hiện giao hàng trong tương lai được viết bằng chữ hình nêm trên các tấm đất sét. Các hợp đồng này mô tả: các bên tham gia hợp đồng, loại hàng hóa sẽ được chuyển giao, ngày giao hàng, mức giá của giao dịch và đôi khi là cả các nhân chứng trong hợp đồng.

Nhìn chung, các hợp đồng được giao dịch tại đền thờ của các thành phố. Thời điểm đó, ngoài các chức năng tôn giáo và chính trị, các đền thờ còn đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động giao dịch phái sinh. Các ngôi đền tại vùng Lưỡng Hà cổ đại vừa là kho lưu trữ, đồng thời là nơi đưa ra các tiêu chuẩn đo lường về số lượng và chất lượng hàng hóa trong hợp đồng. Các ngôi đền lúc bấy giờ hoạt động như trung tâm thanh toán bù trừ hiện nay.

Sự xuất hiện của các hợp đồng giao hàng trong tương lai đã nâng cao hiệu quả của thị trường nông sản tại vùng Lưỡng Hà và đó cũng là tiền đề để phát triển hoạt động thương mại trong dài hạn. Các hợp đồng giao hàng trong tương lai đã được sử dụng trong thời Đế chế La Mã và sau đó là trong thời Đế chế Đông La Mã như một công cụ để hỗ trợ hoạt động thương mại trên khắp các vùng lãnh thổ. 

Một trong những trường hợp điển hình được nêu trong một vài tư liệu lịch sử có nhắc đến sự xuất hiện của quyền chọn lần đầu tiên trong lịch sử. Ghi chép về ví dụ quyền chọn lâu đời nhất được đề cập đến trong một cuốn sách được viết vào giữa thế kỷ thứ TCN, bởi Aristotle (được viết vào năm 350 trước Công nguyên), một nhà triết học Hy Lạp có ảnh hưởng lớn và là tác giả của nhiều thể loại.

Cuốn sách có tựa đề “Chính trị”, Aristotle đã kể về một triết gia khác, đó là Thales, thuộc vùng Miletus (nằm trên bờ biển phía Tây Anatolia, gần cửa sông Maeander, nay là vùng thuộc Thổ Nhĩ Kỳ, một số tài liệu cho rằng ông sinh ra ở Phoenicia và sau đó chuyển đến sống ở Miletus) và cách Thales kiếm được lợi nhuận từ một vụ thu hoạch ô liu.

Thales là một nhà toán học và thiên văn học nổi tiếng, đại diện cho nền văn minh Hy Lạp cổ đại vào khoảng năm 624/623 – 548/545 TCN. Ông là một trong bảy nhà hiền triết của Hy Lạp và cũng chính là người đề xuất nước là nguyên tố đầu tiên, có đóng góp vào các định lý toán học khác nhau. Sau khi dự đoán chính xác nhật thực vào ngày 28 tháng 5 năm 585 TCN với sự trợ giúp của các định lý và thực hành chiêm tinh học của mình, ông đã thực sự trở nên nổi tiếng.

Thales cũng được coi là một trong số những nhà thiên văn học đầu tiên đặt nền móng cho sự phát triển thiên văn học sau này.  Ông còn khiến nhiều người kinh ngạc vì sự hiền triết và thông minh của mình trong các lĩnh vực kinh tế. Ông bị nhiều người chế giễu quá thông minh nhưng sao không kiếm được tiền. 

Để khẳng định rằng nhà khoa học cũng có thể kiếm được tiền,Thales bắt đầu chứng minh rằng, bất kỳ ai, cùng với triết học đều có khả năng trở nên giàu có. Thời điểm đó, ông đang rất nghèo, vì vậy Thales phải tìm ra cách kiếm được nhiều tiền với số vốn đầu tư ít. Và đó là khi ông bắt gặp ô liu.

Ở Hy Lạp cổ đại, ô liu giữ một vị trí đặc biệt, được mô tả là vàng lỏng. Dầu không chỉ được sử dụng để tiêu dùng và nấu ăn mà còn được dùng làm nước hoa và trong các nghi lễ tôn giáo. Điều này sẽ làm tăng nhu cầu về máy ép vì nông dân cần tiết kiệm cho vụ mùa của họ. Vì vậy, Thales bắt đầu đến thăm các chủ cơ sở ép ô liu với một đề nghị. Ông sẽ đặt trước cho họ một khoản tiền mặt nhỏ nếu họ đồng ý cho ông thuê máy ép với giá cố định khi ông gọi điện vào mùa thu hoạch. Nếu ông không đến, họ có thể giữ tiền mặt của ông và cho người khác thuê. Đây chính là quyền chọn mua mà chúng ta được biết đến ngày nay. 

Các chủ cơ sở ép ô liu đã quen với việc cho thuê tài sản của họ vì điều này tránh cho họ công sức làm ra dầu, thải bỏ cặn và tiếp thị sản phẩm. Và không để ý nhiều đến một học giả già, họ nghĩ rằng họ chỉ đang lấy đi số tiền ăn trưa của ông ấy.

Ngày tháng trôi qua và những gì Thales dự đoán đã thành hiện thực. Mọi người đều đang tìm kiếm một chiếc máy ép để làm dầu. Nhưng chủ sở hữu không thể cho thuê máy ép của mình vì Thales mới là người thực sự sở hữu quyền thuê chúng. Ông ấy hoàn toàn không có một động thái gì, ông đợi và đợi cho đến khi sự sợ hãi và điên cuồng khiến mọi người không khỏi bồn chồn. Và sau đó, người trả giá cao nhất thuê chiếc máy ép được quyền sử dụng chúng. Bằng cách này, Thales đã biến khoản tiền gửi nhỏ của mình thành một gia tài. Nếu dự đoán của ông sai, khoản lỗ của ông sẽ chỉ giới hạn ở số tiền gửi. Đây là bản chất của một quyền chọn mua.

Mặc dù thuật ngữ này không được sử dụng vào thời điểm đó, nhưng Thales đã tạo ra một cách hiệu quả quyền chọn mua đầu tiên với máy ép ô liu như việc đảm bảo cho tài sản cơ sở. Ông đã trả tiền cho quyền, nhưng không phải nghĩa vụ, đối với sử dụng máy ép ô liu với giá cố định và sau đó có thể thực hiện các tùy chọn của mình để kiếm lợi nhuận. Đây là nguyên tắc cơ bản cho cách hoạt động quyền chọn mua ngày nay vì vậy, mặc dù những ngọn nến trên màn hình mới xuất hiện gần đây, các khái niệm về tài chính đã xuất hiện từ buổi bình minh của loài người

Trong thời cổ đại, hầu hết các hợp đồng được thực hiện giữa các bên độc lập (ví dụ: thương nhân hoặc người bán) và tương tự như các giao dịch phái sinh trên thị trường phi tập trung hiện nay, đặc biệt là các giao dịch hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng quyền chọn. Khung pháp lý cho các hợp đồng giao hàng trong tương lai được thiết lập trong luật thương mại La Mã vẫn được duy trì trong thời Trung cổ (Thời kỳ tăm tối).

Thời điểm đó, các thị trường được tổ chức ra như các hội chợ định kỳ. Do trong các hội chợ lớn, chẳng hạn như hội chợ ở Genoa (Ý) hay Lyons (Pháp), những giao dịch giữa các thương nhân thường có khối lượng lớn nên việc giao dịch bằng hình thức tín dụng thay cho tiền là điều cần thiết. Đồng thời, để giải quyết những giao dịch sử dụng đơn vị tiền tệ khác nhau, mỗi hội chợ đều phải có đội nhóm xác định tỷ giá hối đoái.

Đến khoảng năm 1100, các thương gia châu Âu phát triển “văn tự hội chợ” (fair letter) – giống như thư tín dụng giữa người mua và người bán. Những lá thư này sau đó được thanh toán tại hội chợ thương mại khu vực châu Âu như Hội chợ Champagne và Brie của Pháp, thị trường thương mại chính ở Bắc Âu. Người bán hàng sẽ tập trung hàng hóa sẵn ở hội chợ và người mua cung cấp một “văn tự” làm phương tiện thanh toán và mua hàng.

Hội chợ Champagne lúc mới thành lập chỉ phục vụ cho trao đổi nông sản, nhưng về sau phát triển thành thị trường thương mại lớn với nhiều mặt hàng. Hội chợ Champagne trở thành trung tâm thanh toán bù trừ quốc tế cho các giấy nợ, thư tín dụng. Người bán nhận được “văn tự hội chợ” hay thư tín dụng. Thư này sẽ được nhà kim hoàn tại địa phương phụ cận thanh toán. Tại giai đoạn này, nhà kim hoàn là nơi thương nhân gửi và giữ tiền tại đó. Sau này, các nhà kim hoàn phát triển thành các ngân hàng.

Do chiến tranh và vấn đề chính trị, các hội chợ di chuyển từ vùng Champagne sang thành phố cảng Burges. Đến khoảng năm 1309, Bruges trở thành một trong những thành phố thương mại có thị trường tiền tệ tinh vi nhất ở châu Âu, với các hợp đồng kỳ hạn được định hình và mua bán.

Nhưng đến năm 1500, Bruges suy thoái dần và hoạt động thương mại phải chuyển đến thành phố cảng Antwerp. Năm 1515, thành phố cảng Antwerp thiết lập tòa nhà dành riêng cho thương nhân địa phương và quốc tế tập trung nhau lại và tiến hành kinh doanh thương mại.

Trước khi có Bourse, thương nhân thường gặp nhau tại một địa điểm và thời gian nhất định để tiến hành thỏa thuận. Kể từ khi trở thành thị trường thương mại quốc tế quanh năm, thị trấn Antwerp tăng trưởng nhanh chóng và Bourse đã trở thành địa điểm trao đổi thương mại ưa chuộng ở Bắc Âu. Hàng dệt may của Anh, gia vị của Bồ Đào Nha, và đồ kim loại của Đức đã được giao dịch ở Antwerp.

Do sự thành công của nó, đến năm 1531, tòa nhà Bourse mới và lớn hơn được xây dựng ngoài thành phố theo quy hoạch phát triển đặc biệt với việc đặt hoạt động thương mại làm trung tâm. Cách xa cảng và kho hàng nhưng Bourse mới là nơi hợp đồng và các công cụ tài chính khác được giao dịch. Thương nhân không trực tiếp mua hàng hóa mà họ đã mua và bán quyền sở hữu các mặt hàng – tài sản vô hình. Một thị trường tài chính thực sự đã được thành lập nhưng hàng hóa phái sinh được trao đổi đa số vẫn là hợp đồng kỳ hạn. Antwerp thịnh vượng cho đến năm 1648.

Trong 200 năm tiếp sau đó, trao đổi thương mại hàng hóa trong thế giới phương Tây sử dụng các thỏa thuận hợp đồng tương tự như hợp đồng kỳ hạn. Tuy nhiên, nói chung, các thỏa thuận vẫn phải giải quyết trực tiếp với nhau, một dạng phi tập trung thời trung cổ. Mỗi bên phải tin tưởng bên khác để giao dịch. Như vậy, ta có thể thấy phái sinh hàng hóa đã có từ lâu đời, hình thành và định hình dần dần từ sản phẩm phái sinh cơ bản: hợp đồng kỳ hạn; chỉ có sự manh mún của thị trường phái sinh phi tập trung, chưa có một thị trường phái sinh chính thức. Mãi về sau, phương Đông (châu Á) mới sản sinh ra thị trường hàng hóa phái sinh đầu tiên trên thế giới.

Giao dịch hàng hóa thời kỳ Phục Hưng

Trong thời kỳ Phục hưng (kéo dài từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XVI) thị trường tài chính trở nên phức tạp hơn ở Ý và các quốc gia vùng thấp (Hà Lan và Bỉ). Trong thời gian đó, tốc độ liên lạc chậm và chi phí vận chuyển cao là một vấn đề nghiêm trọng đối với các thương nhân. Các thương nhân đã sử dụng hợp đồng phái sinh như một phương tiện trao đổi trong hoạt động thương mại trong dài hạn. Một trong những hợp đồng như vậy là hối phiếu.

Bill of exchange - Hối phiếu
Hối phiếu do C. F. Høyer phát hành, 10.7.1813

Hối phiếu trong thời kỳ Phục hưng có cấu trúc như một hợp đồng quyền chọn ở thời điểm hiện tại. Thời gian đáo hạn của các hối phiếu thường dao động từ vài ngày đến 90 ngày. Khi hoạt động thương mại mở rộng, việc trao đổi các hối phiếu đã tăng lên đáng kể, do đó nhiều thương nhân đã chuyển từ trao đổi hàng hóa giao dịch hối phiếu. Cho đến năm 1541, các giao dịch này đã bị cấm vì những lo ngại về rủi ro tài chính (ngày nay được gọi là rủi ro hệ thống) do giao dịch hối phiếu mang lại cơ hội lớn cho các thương nhân đầu cơ và gia tăng lợi nhuận.

Sau khi hối phiếu không được sử dụng, hợp đồng kỳ hạn đã được giới thiệu rộng rãi tại thành phố Bruges và thành phố Antwerp (Bỉ), và sau đó là tại thành phố Amsterdam (Hà Lan). Thành phố Antwerp ban đầu là trung tâm giao dịch hàng hóa quan trọng nhất. Năm 1531, Sở giao dịch Antwerp thành lập và giao dịch đồng thời hợp đồng kỳ hạn, thời điểm đó hợp đồng quyền chọn đã xuất hiện.

Thanh khoản được tập trung tại Sở giao dịch Antwerp đã làm gia tăng hoạt động đầu cơ của các thương gia và nhà buôn lớn, những người vốn kiểm soát các hoạt động tài chính hoặc kinh doanh hàng hóa. Năm 1565, Sở giao dịch Hoàng gia thành lập tại London theo mô hình của Sở giao dịch Antwerp. Sự sụp đổ của Sở giao dịch Antwerp vào năm 1585 và sau đó là sự di cư của các thương nhân lớn đã góp phần đáng kể vào sự trỗi dậy của các sở giao dịch hàng hóa và tài chính quan trọng tại Amsterdam và London. 

Mặc dù Amsterdam là một trung tâm thương mại quan trọng kể từ trước năm 1585, song việc thành lập thị trường giao dịch Amsterdam vào năm 1611 đã đánh dấu sự khởi đầu mang tính biểu tượng của quyền bá chủ thương mại Hà Lan. Trong suốt thế kỷ 17 và 18, việc giao dịch các hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng quyền chọn trên Sở giao dịch Amsterdam đã thể hiện nhiều đặc điểm thiết yếu của việc giao dịch tập trung tại các thị trường phái sinh hiện đại. Amsterdam cũng là nơi đầu tiên trong lịch sử chứng kiến bong bóng đầu cơ liên quan đến thị trường hoa tulip, được gọi là “tulipmania (tạm dịch là: “cơn sốt hoa tulip”).

Chỉ số giá Tulip 1636 - 1637 (Tulip price index)
Chỉ số giá Tulip 1636 – 1637

Vào những năm 1630, giá của búp hoa tulip mới được giới thiệu đã đạt mức cao bất thường và sau đó đột ngột giảm xuống. Vào tháng 2 năm 1637, thời điểm mà cơn sốt hoa tulip đạt đỉnh, một số búp hoa tulip đã được bán với giá gấp hơn 10 lần mức lương hàng năm của một thợ thủ công lành nghề (có khoảng 300 thợ thủ công một năm). Loại tulip ‘Semper Augustus nổi tiếng là loại hoa tulip đắt nhất được bán vào những năm 1630.

Cơn sốt hoa tulip được phát triển do cảm giác hưng phấn nhất thời và được thúc đẩy bởi sự gia nhập của những nhà đầu cơ vào thị trường hoa tulip. Đồng thời, việc đầu cơ búp hoa tulip được thực hiện chủ yếu bằng các hợp đồng quyền chọn. Theo quan điểm của nhà kinh tế Keynes, cơn sốt hoa tulip có thể được coi là một ví dụ về lý thuyết “linh hồn động vật”, lý thuyết cho rằng thị trường tài chính phần lớn là phi lý và được thúc đẩy bởi hành vi bầy đàn, do đó “cơn sốt” là hậu quả thất bại của thị trường.

Ngược lại, theo quan điểm tự do kinh tế, giá cả bất thường là hậu quả của các quyết định của chính phủ, vì vậy đó là sự thất bại của chính phủ. Một ý kiến của nhà phân tích cho hay: “Một thị trường giao dịch hoa tulip là một phản ứng hiệu quả với việc thay đổi quy định trong tài chính, đặc biệt là việc chính phủ dự kiến chuyển đổi hợp đồng kỳ hạn tiêu chuẩn thành hợp đồng quyền chọn”.

Giao dịch các hợp đồng phái sinh lan rộng từ Amsterdam sang Pháp vào cuối thế kỷ 17, và từ Pháp sang Đức vào đầu thế kỷ 19. Các công cụ phái sinh ban đầu được sử dụng để phòng vệ rủi ro một cách hiệu quả. Đó cũng là lý do đằng sau sự phát triển nhanh chóng của các giao dịch phái sinh.

Thời kỳ Khai sáng – Sở giao dịch gạo Dojima  

Trong khi hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng quyền chọn được xuất hiện lần đầu tại châu Âu, thì bằng chứng đầu tiên về hợp đồng kỳ hạn tiêu chuẩn được tìm thấy vào năm 1650 tại chợ gạo Yodoya tại Osaka, một thành phố được coi là căn bếp của Nhật Bản. Sở giao dịch kỳ hạn tập trung đầu tiên trên thế giới (thị trường gạo Dojima) được thành lập tại Osaka vào năm 1730. Các năm từ 1603 đến 1868 được biết đến với tên gọi là thời kỳ Tokugawa, hoặc thời kỳ Edo, kể từ khi Nhật Bản được trị vì bởi Mạc phủ Tokugawa. Edo có nghĩa là “lối vào vịnh” hoặc “lối vào cửa sông”, Edo cũng là tên gọi cũ của Thủ đô Tokyo.

Gạo đóng một vai trò đặc biệt trong thời kỳ Tokugawa, là giai đoạn phát triển cuối cùng và cao nhất của chế độ phong kiến Nhật Bản, được cai trị bởi các tướng quân của gia đình Tokugawa từ năm 1603 đến năm 1868. Đất đai được đo bằng sản lượng gạo. Các lãnh chúa tại Nhật Bản lúc bấy giờ nhận thuế hàng năm dưới dạng gạo, phần gạo chênh lệch được chuyển đến kho dự trữ của họ ở Osaka để bán ra thị trường.

Hàng năm, khoảng 2,000,000 koku gạo (tương ứng khoảng 9,920,000 giạ) được vận chuyển đến các kho ở Osaka, số lượng kho dự trữ lên đến hơn 100 vào năm 1700. Lãnh chúa Nhật Bản thuê các thương nhân để quản lý kho của họ. Gạo được bán trong các cuộc đấu giá cho các nhà môi giới gạo được ủy quyền chính thức. Những nhà môi giới gạo đấu giá thành công sẽ nhận được một “phiếu gạo” (thể hiện nghĩa vụ sẽ giao gạo trong tương lai với một mức giá cụ thể). Một mặt, phiếu mua gạo cho phép lãnh chúa cố định giá mua và bán gạo, giảm rủi ro mà họ phải đối mặt. Mặt khác, phiếu gạo có thể tự do chuyển nhượng. Vì vậy phiếu gạo bắt đầu được giao dịch cho các bên thứ ba.

Phiếu gạo
Trao đổi phiếu gạo ở Dojima (Hình ảnh minh họa)

Năm 1697, chợ gạo Yodoya chuyển đến Dojima, một hòn đảo nhỏ ở đồng bằng của ba con sông chính tại phía bắc Osaka, và trở thành Sở giao dịch Gạo Dojima. Sở giao dịch Gạo Dojima được Mạc phủ Tokugawa chính thức cho phép giao dịch gạo vào năm 1730. Sở giao dịch Gạo Dojima bao gồm hai loại thị trường gạo: thị trường shomai (nghĩa là thị trường “gạo thực”) và thị trường choaimai (nghĩa là “gạo trên sổ sách”). Thị trường shomai là thị trường giao ngay và thị trường choaimai là thị trường kỳ hạn. tiên Sở giao dịch Gạo Dojima phải tuân theo các luật cụ thể.

Trên thực tế, mỗi thương nhân giao dịch gạo cần phải đăng ký và có giấy phép hoạt động trên Sở giao dịch Dojima. Ngoài ra, các thương nhân được chỉ định giao dịch vào những khoảng thời gian cố định (nhìn chung, một năm được chia thành ba giai đoạn với thị trường mùa xuân, mùa hạ và mùa đông, tương ứng: từ 4 tháng 1 đến 8 tháng 4; từ 17 tháng 4 đến 8 tháng 10 và từ 17 tháng 10 đến 24 tháng 12).

Các hợp đồng được giao dịch dưới dạng hợp đồng kỳ hạn đã được tiêu chuẩn hóa (đơn vị giao dịch tiêu chuẩn là 100 koku, mỗi hợp đồng bằng 100 koku và bước giá tối thiểu được đo bằng 1 koku). Chất lượng gạo cũng được tiêu chuẩn hóa. Vào ngày cuối cùng của giai đoạn giao dịch, tất cả các vị thế phải được tất toán bằng tiền mặt hoặc bằng cách giao hàng thực thông qua trung tâm thanh toán bù trừ. Mỗi thương nhân phải ký quỹ tại trung tâm thanh toán bù trừ, các trung tâm thanh toán bù trừ thực hiện nghĩa vụ hợp đồng trong trường hợp thương nhân mất khả năng thanh toán.

Về mặt quản lý, Mạc phủ Tokugawa đã nắm quyền kiểm soát thị trường, đặc biệt là đối với giao dịch gạo kỳ hạn. Do đó, các nguyên tắc quản lý giao dịch trên Sở giao dịch Gạo Dojima giống như thị trường kỳ hạn tiêu chuẩn ngày nay. Thị trường Dojima vẫn hoạt động cho đến cuối thời Tokugawa (1603 – 1868). Sự bất ổn của Mạc phủ Tokugawa đã giảm hiệu quả của chính sách kiểm soát và phân phối gạo. Thị trường gạo Dojima suy yếu và phải đóng cửa vào năm 1869.  

Thị trường giao dịch hàng hóa hiện đại tại Mỹ 

Quay trở lại khoảng 200 năm trước, vào đầu những năm 1800, thành phố Chicago lúc đó nổi lên như một trung tâm quan trọng cho việc lưu trữ, buôn bán và phân phối ngũ cốc nhờ vị trí chiến lược trên hồ Michigan, cùng với sự mở rộng bến cảng và hệ thống đường sắt của thành phố. Năm 1848, Sở giao dịch hàng hóa phái sinh Chicago – Chicago Board of Trade (CBOT) được thành lập tại một thị trấn, bởi một nhóm các doanh nhân, với mục tiêu điều chỉnh thị trường ngũ cốc vốn rất rối loạn của vùng Trung Tây. Hiện nay, CBOT là Sở giao dịch hàng hóa phái sinh lâu đời nhất trên thế giới vẫn còn đang hoạt động. 

Sở giao dịch hàng hóa phái sinh Chicago - Chicago Board of Trade (CBOT)
Sở giao dịch hàng hóa phái sinh Chicago – Chicago Board of Trade (CBOT)

Vào mùa đông, giá nông sản đặc trưng cao vì đó là thời gian ngũ cốc trở nên khan hiếm, và ngược lại trong mùa vụ thu hoạch. Để tránh trường hợp giá giảm mạnh, người nông dân thường tiêu hủy hoặc rút bớt ngũ cốc ra khỏi thị trường. Hội đồng Thương mại cung cấp một giải pháp để đảm bảo giá hàng hóa bằng cách thương lượng các hợp đồng kỳ hạn, còn được gọi là “to-arrive contracts”. Người nông dân có thể thương lượng mức giá mà họ mong muốn ngay từ khi sản phẩm của mình vẫn đang trong thời gian gieo trồng và đợi giao hàng vào mùa vụ thu hoạch. Đồng thời, người mua có thể đảm bảo trước cho mình một nguồn cung cố định. Do đó, những hợp đồng này cho phép người nông dân chốt giá trước và giao hàng sau. 

Rất nhanh sau đó, CBOT trở thành địa điểm chủ yếu để buôn bán ngũ cốc, đến năm 1855, Pháp chuyển hoạt động thu mua ngũ cốc từ New York đến Chicago. Một trong những cải tiến đầu tiên do CBOT thực hiện là việc thành lập một bộ phận chịu trách nhiệm phân loại và chứng nhận các loại ngũ cốc vào năm 1858. Theo hệ thống cũ, lô ngũ cốc của nông dân phải được kiểm tra ở nhiều điểm trong quá trình bán, để đảm bảo chất lượng và độ sạch đúng như yêu cầu. Nếu một nông dân dự trữ ngũ cốc của mình cùng với các lỗ của nông dân khác, các loại ngũ cốc có chất lượng khác nhau thường bị trộn lẫn, ảnh hưởng đến giá sau này.

Ủy ban đã thiết lập một hệ thống mới, trong đó ngũ cốc được phân loại trước khi bảo quản và dự trữ những loại ngũ cốc có cùng chất lượng. Người nông dân nhận được một biên lai (receipts) cho một lượng ngũ cốc Y và có chất lượng Y; một trong những loại đó gọi là “tiêu chuẩn”.

Việc sử dụng các biên lai đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao dịch khối lượng lớn ngũ cốc. Thay vì mua và bán các bao tải lúa mì hoặc ngô, các nhà môi giới có thể giao dịch các biên lai “receipts”. Sau đó, họ bắt đầu giao dịch các hợp đồng kỳ hạn tiêu chuẩn ngũ cốc. Đối với người nông dân, hợp đồng kỳ hạn tiêu chuẩn đảm bảo một mức giá nhất định trong tương lai. Đối với các nhà đầu cơ, hợp đồng kỳ hạn tiêu chuẩn đại diện cho một phương thức kiếm lợi nhuận từ sự biến động giá cả. 

Điều này tạo niềm tin cho người mua và tạo cơ sở cho sự phát triển của thị trường. Vào năm 1888, khoảng 25 triệu tỷ giạ lúa mì được chuyển từ tay người này sang người khác thông qua các hợp đồng kỳ hạn tiêu chuẩn, mặc dù người nông dân chỉ thu hoạch được 415 triệu giạ lúa mì trong năm đó. Thị trường kỳ hạn tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân phối ngũ cốc hiệu quả và góp phần vào một thị trường hoạt động tốt nhờ ổn định giá. So sánh ba loại ngũ cốc có bản chất tương tự – lúa mì, yến mạch và lúa mạch – có thể được sử dụng như một phép thử đơn giản để hỗ trợ tuyên bố này (Bảng 1). Lúa mì và yến mạch được giao dịch trên thị trường kỳ hạn, lúa mạch thì không. 

NĂMLÚA MÌ (%)YẾN MẠCH (%)LÚA MẠCH (%)
189924.246.757.1
190042.62597.6
190126.6107.573.2
190241103.493.3
190332.54472.2
190450.362.9103.3
190559.23857.1
190642.94852.7
190771.868.6175
190831.431.5130.4
190961.272.291.9
191044.764.7114.3
191140.565.8152.6
191243.593.4233.3
191343.137.1102.4
191470.152.679.5
191570.468.487.5
1916207.352.5120.6
Ảnh 1: Tỷ lệ phần trăm biến động giá hang vật chất 
Nguồn: James E.Boy;e năm 1921, Hội đồng Thương mại Chicago (New York: The Macmillan Company), Trang 123

Bằng cách so sánh biến động giá trên thị trường Chicago trong giai đoạn 1899 – 1916, có thể nhận thấy rằng, biến động giá lúa mạch khốc liệt hơn nhiều so với biến động giá lúa mì và yến mạch. Thực tế, vào năm 1916, lúa mì có biến động trên 100%, yến mạch ghi nhận sự biến động tương tự hai lần (vào năm 1901 và 1902), trong khi lúa mạch cho thấy mức giá dao động như vậy tám lần trong 18 năm. Điều này cho thấy giao dịch ngũ cốc kỳ hạn có sự ổn định giá. 

Một số kết quả tương tự thu được bằng cách so sánh sự biến động của giá lúa mì tính theo giạ trước và sau khi bắt đầu giao dịch kỳ hạn. Xem xét dữ liệu của chuyên gia Boyle và áp dụng cùng một thử nghiệm gần giống, thực hiện cho thị trường Dojima, ông thấy rằng sự biến động cao hơn nhiều khi không giao dịch trên thị trường kỳ hạn. Tuy nhiên, các yếu tố khác cũng có thể góp phần làm giảm sự dao động giá như sự phát triển giao thông. 

Việc mở rộng thêm trên thị trường giao dịch phái sinh của Mỹ diễn ra vào những năm 1970. Thời điểm này, đồng thời với sự sụp đổ của chế độ tỷ giá hối đoái cố định Bretton Woods và sự phát triển của máy tính, cùng với việc sử dụng chúng ngày càng tăng trong lĩnh vực tài chính, cho phép các mô hình và phép tính phức tạp được giải quyết nhanh chóng và hiệu quả. Đồng thời, các đổi mới tài chính mới đã được giới thiệu bởi các sở giao dịch.

Ví dụ, Chicago Mercantile Exchange đã đưa ra các hợp đồng kỳ hạn tiêu chuẩn được viết trên các công cụ tài chính vào năm 1972. Năm 1973, những tiến bộ lý thuyết được trình bày trong nghiên cứu của Fischer Black và Myron Scholes “Định giá các quyền chọn và các khoản nợ” (The Pricing of Options and Corporate Liabilities) cho phép các nhà giao dịch tính toán giá quyền chọn và tạo vị thế phòng ngừa rủi ro bằng cách sử dụng quyền chọn trên cổ phiếu. Cũng trong năm đó, Hội đồng Thương mại Chicago đã mở Sở giao dịch quyền chọn Chicago. Năm 1975, Hội đồng Thương mại Chicago giới thiệu hợp đồng kỳ hạn tiêu chuẩn lãi suất đầu tiên. 

Vào nửa sau của những năm 1980, các nghĩa vụ nợ có tài sản đảm bảo đầu tiên được phát hành bởi một ngân hàng đầu tư ở Phố Wall. Tuy nhiên, hoạt động mua bán chứng khoán phái sinh vẫn chủ yếu diễn ra trên các sở giao dịch chứ không kéo dài. Năm 1991, số lượng giao dịch phái sinh trên thị trường OTC đã vượt qua  số lượng giao dịch phái sinh thông qua các sở giao dịch.

Sự phát triển quan trọng tiếp theo của các công cụ phái sinh là giao dịch điện tử, được ra mắt lần đầu bởi Chicago Mercantile Exchange vào năm 1992 ngay lập tức đã được chấp nhận rộng rãi Giữa những năm 1990 đã chứng kiến sự xuất hiện của các công cụ tài chính hiện đại, như hoán đổi nợ tín dụng và những thay đổi đáng kể trong giao dịch phái sinh được hỗ trợ bởi hai Đạo luật của Quốc hội, Đạo luật Hiện đại hóa Dịch vụ Tài chính (the Financial Services Modernization Act) và Đạo luật Hiện đại hóa Hàng hóa Kỳ hạn tiêu chuẩn (the Commodity Futures Modernization Act). 

Bắt đầu từ thiên niên kỷ mới, thị trường phái sinh ghi nhận sự mở rộng đáng kể đạt mức 25 tỷ hợp đồng được giao dịch vào năm 2017, tăng hơn gấp đôi so với năm 2006. Tuy nhiên, con số này che giấu sự khác biệt đáng kể giữa các loại phái sinh (hợp đồng kỳ hạn tiêu chuẩn và quyền chọn)

Khối lượng hợp đồng kỳ hạn tiêu chuẩn, sau khi đạt mức kỷ lục 15.5 tỷ vào năm 2016, đã giảm xuống mức 14.5 tỷ hợp đồng trong năm 2017; khối lượng quyền chọn, có xu hướng đăng ký giá trị nhỏ hơn hợp đồng kỳ hạn tiêu chuẩn, tăng trong năm 2017 so với năm 2016. Về phân tích tài sản, loại sản phẩm phái sinh trao đổi được giao dịch tích cực nhất, chiếm 48% tổng lượng là vốn chủ sở hữu, tiếp theo là hàng hóa khoảng 25%, sau đó dao khối mới đến lãi suất, tiền tệ và các sản phẩm khác. 

Một trong số những nguyên nhân giải thích cho sự phát triển của giao dịch hàng hóa là có sự xuất hiện của giao dịch điện tử, hay người ta còn gọi đó là giao dịch kiểu Point-and-Click. Sử dụng lần đầu tiên trên Sở giao dịch hàng hóa Chicago (CME) năm 1992, giao dịch điện tử đã nhanh chóng được chấp nhận rộng rãi. Năm 2005, cả Sở Liên lục địa ICE và CME hoàn tất việc cập nhật giao dịch điện tử trên mọi nền tảng, đánh dấu cuộc cách mạng toàn diện trong giao dịch hàng hóa. Lợi ích có được từ giao dịch điện tử là tính minh bạch, thanh khoản cao và giảm chi phí giao dịch.

Ngày nay, hầu như hoạt động giao dịch hàng hóa phái sinh, hàng hóa, hoặc chứng khoán có thể được thực hiện tại nhà riêng của mỗi cá nhân hay bất cứ nơi đâu. Được thừa hưởng sự phát triển vượt bậc của thời đại công nghệ thông tin trong những năm vừa qua, giao dịch hàng hóa trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết. Người dùng có thể thoải mái và tiện lợi trong việc đăng nhập các hệ thống giao dịch điện tử bằng điện thoại thông minh, máy tính bảng hoặc màn hình máy tính đa diện nền tảng ở bất cứ đâu. Là một phần không thể thiếu của các nền tảng giao dịch trực tuyến, các công cụ phân tích kĩ thuật cũng được phát triển lên tầm cao mới.

Trước đây chỉ có những nhà phân tích chuyên nghiệp và lành nghề mới có thể vẽ những biểu đồ phân tích kỹ thuật chuyên nghiệp bằng tay, nhưng đến nay, với sự đa dạng của các sản phẩm, công cụ, widget/add-on trên các hệ thống khác nhau, người dùng cơ bản cũng có thể gọi các biểu đồ chuẩn mực theo từng khung thời gian và gọi các nhóm chỉ báo phân tích kỹ thuật mà mình mong muốn theo nhu cầu.

Leave a Comment

Về chúng tôi

Giới thiệu về SACT

Chính sách điều khoản

Chính sách bảo mật

Tin tuyển dụng

Site map

Hotline: 024-7304-8884

support@hanghoaphaisinh.com

Liên hệ

Công ty CP Giao dịch Hàng hoá Đông Nam Á (SACT)

Thành viên kinh doanh chính thức của Sở Giao Dịch Hàng Hóa Việt Nam (MXV)

Trụ sở chính: CT36A, Định Công, Hoàng Mai, Hà Nội.

CN HN1: 25 Sunrise B , The Manor Central Park, Hoàng Mai, Hà Nội

CN Hồ Chí Minh: Tầng 2, số 75 Hoàng Văn Thụ, Phường 15, Q. Phú Nhuận, TPHCM